Ngày xuất bản: 2025-01-22

Nghiên cứu một số dòng/giống sắn kháng bệnh khảm lá tại tỉnh Quảng Bình

Trần Thị Hoàng Đông, Lê Khắc Phúc, Lê Văn Thơ, Võ Thị Như Trang, Nguyễn Ngọc Tâm & Trương Thị Ngọc Thúy
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.01.2025
Tóm tắt | PDF (141.3K)

Tóm tắt

Sáu dòng/giống sắn gồm 3 dòng/giống có triển vọng (HL-KM94, HL-S14, KM505-54) và 3 dòng kháng bệnh khảm lá (HN1, HN5 và HN97) đã được đánh giá tại tỉnh Quảng Bình trong niên vụ năm 2022 nhằm tuyển chọn được một số giống sắn có năng suất, hàm lượng tinh bột cao và khả năng chống chịu bệnh khảm lá phù hợp với điều kiện địa phương. Thí nghiệm được thiết kế theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 3 lần lặp lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các dòng/giống sắn sử dụng trong nghiên cứu có thời gian mọc mầm trung bình từ 16,7 - 22 ngày, chiều cao trung bình từ 277,4 - 363,4 cm, thời gian sinh trưởng trung bình từ 272 - 300 ngày, khối lượng củ trung bình từ 190 - 850 g/củ, màu sắc vỏ lụa từ trắng đến vàng nhạt, thịt củ màu trắng (trừ HN97 có thịt củ màu vàng). Về tình hình nhiễm bệnh khảm lá cho thấy có 3 dòng sắn gồm HN1, HN5, và HN97 đều không có biểu hiện bệnh khảm lá ở giai đoạn cây con và giai đoạn sau 6 tháng trồng xuất hiện bệnh với tỷ lệ thấp trung bình từ 3,1 - 5,2%. Kết quả nghiên cứu đã tuyển chọn được hai dòng/giống HN1 và HL KM94 là những dòng/giống sắn sinh trưởng phát triển tốt, có khả năng kháng bệnh khảm lá, cho năng suất củ tươi đạt trung bình 48,0 - 54,9 tấn/ha, chỉ số thu hoạch 64,4 - 67% và hàm lượng tinh bột đạt trên 28%.

Ảnh hưởng của mật độ trồng và tỷ lệ thu hoạch đến các chỉ tiêu môi trường nước, sinh trưởng và năng suất của cây hẹ nước (Vallisneria spiralis)

Trần Văn Kha & Ngô Thị Thu Thảo
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.04.2025
Tóm tắt | PDF (349.6K)

Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của mật độ trồng và tỷ lệ thu hoạch đến sinh trưởng và năng suất của cây hẹ nước (Vallisneria spiralis). Thí nghiệm 1 nhằm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ trồng khác nhau gồm có ba nghiệm thức mật độ trồng hẹ nước với ba lần lặp lại là: 1) 0,25 kg/m2; 2) 0,50 kg/m2 và 3) 0,75 kg/m2. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng (3210 mg/ngày) và tỷ lệ tăng sinh khối (83 g) khi trồng với mật độ 0,50 kg/m2 tương đương với mật độ 0,75 kg/m2 (P > 0,05), tuy nhiên năng suất đạt cao (0,896 kg/m2) khi hẹ được trồng ở mật độ 0,75 kg/m2. Thí nghiệm 2 đánh giá ảnh hưởng của tỷ lệ thu hoạch khác nhau, trong đó có 4 nghiệm thức (tương ứng với 4 tỷ lệ thu hoạch) và cũng được lặp lại 3 lần là: Không thu hoạch và thu 15, 25, 35% tổng sinh khối/lần sau mỗi 15 ngày trồng. Kết quả tỷ lệ thu hoạch 15 và 25% không khác biệt về tăng trưởng và năng suất hẹ thu được (P > 0,05), tuy nhiên với tỷ lệ thu hoạch 35% đã làm giảm rất rõ các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ tăng sinh khối và năng suất của hẹ nước.

Kháng kháng sinh của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus phân lập trên hàu bán tại thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

Truyện Nhã Định Huệ, Nguyễn Hoàng Nam Kha, Ngô Nhã Phương, Nguyễn Thị Trúc Duyên & Phạm Huyền Nhung
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.06.2025
Tóm tắt | PDF (480.4K)

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm đánh giá tình trạng kháng kháng sinh của 75 chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus được phân lập trên hàu được bán tại thành phố Thủ Đức. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy tất cả các chủng đều nhạy cảm với chloramphenicol, florfenicol và kháng hoàn toàn với ampicillin. Tỷ lệ kháng của các chủng phân lập với kháng sinh streptomycin, tetracycline, trimethoprim/sulfamethoxazol, nalidixic acid, ciprofloxacin, enrofloxacin, nitrofurantoin lần lượt là 56%; 4%; 4%; 4%; 22,7%; 38,7%. Tỷ lệ đa kháng từ hai đến sáu loại kháng sinh được ghi nhận là 96% và chỉ số MAR (multiple antibiotic resistance) từ 0,2 đến 0,42.

Ảnh hưởng của bổ sung chế phẩm sinh học trong ương ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain estampador, 1949)

Lê Hoàng Vũ, Cao Bích Tuyền & Nguyễn Việt Bắc
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.03.2025
Tóm tắt | PDF (188.8K)

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại chế phẩm sinh học lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain). Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức: (i) Nghiệm thức đối chứng (không bổ sung chế phẩm sinh học), (ii) bổ sung L. acidophilus, (iii) bổ sung B. subtilis, (iv) bổ sung kết hợp L. acidophilus và B. subtilis, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần và bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Ấu trùng được ương trong bể nhựa 60 L với mật độ 200 con/L, độ mặn 26 ppt và bể ương được thay 3 ngày/lần, với 25% thể tích nước. Trong suốt thời gian ương bể ương được bổ sung chế phẩm vi sinh mỗi 3 ngày/lần với mật độ 104 CFU/mL. Kết quả cho thấy mật độ vi khuẩn tổng cao nhất ở nghiệm thức bổ sung L. acidophilus (16,38 x 104 CFU/mL) khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với nghiệm thức đối chứng (6,37 x 104 CFU/mL). Mật độ vi khuẩn Vibrio spp. ở nghiệm thức đối chứng cao nhất (6,67 x 103 CFU/mL) khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05) so với các nghiệm thức có bổ sung chế phẩm vi sinh. Chỉ số biến thái (LSI) của ấu trùng của các nghiệm thức sử dụng vi sinh khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (P > 0,05). Tỷ lệ sống đến Cua1 thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng (7,51%) khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Nghiệm thức bổ sung L. acidophilus cho tỷ lệ sống cao nhất (10,04%). Kết quả nghiên cứu này cho thấy bổ sung L. acidophilus trong ương ấu trùng cua biển đạt hiệu quả cao nhất.

Kiến thức - Thái độ - Hành vi của sinh viên Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh về nguy cơ bệnh truyền lây giữa người và động vật

Trương Đình Bảo, Nguyễn Thị Thu Nguyệt, Nguyễn Thanh Trúc, Nguyễn Thị Thiên Nhi, Nguyễn Thị Ý Nhi, Trần Phùng Bích Loan, Lê Quang Thông & Nguyễn Thị Thùy Dung
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.02.2025
Tóm tắt | PDF (184.5K)

Tóm tắt

Bệnh truyền lây giữa người và động vật là một vấn đề sức khỏe quan trọng cho cả lĩnh vực y tế và thú y. Sinh viên các ngành này là những mắt xích quan trọng trong việc phòng ngừa và kiểm soát các bệnh trên. Mục tiêu của đề tài nhắm tới là tìm hiểu kiến thức (K), thái độ (A) và hành vi (P) phòng chống các bệnh truyền lây giữa người và động vật của sinh viên các ngành chăn nuôi, và thú y, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. Hai phương pháp sử dụng trong nghiên cứu cắt ngang là khảo sát KAP và khảo sát Q được tiến hành lần lượt trên 329 và 46 sinh viên năm 1 tới năm 4 của khoa Chăn nuôi Thú y (thời điểm 2023). Kết quả cho thấy sinh viên có K, A và P tốt lần lượt là 66%, 48% và 60%. Niên khóa có ảnh hưởng lên hình thành kiến thức và thái độ. Sinh viên có thú nuôi trong nhà ảnh hưởng lên thái độ. Số nguồn thông tin ảnh hưởng lên sự khác biệt về thái độ và hành vi. Ba cụm sinh viên khác nhau được hình thành từ phân loại dựa trên điểm KAP. Cụm 1 có cả ba điểm thấp hơn trung bình quần thể, cụm 2 có KP cao nhưng A thấp hơn trung bình quần thể, và cụm 3 có KAP cao hơn trung bình quần thể. Hai nhóm ý kiến (NYK) được hình thành từ các bạn sinh viên thông qua phương pháp Q, trong đó NYK 1 quan tâm nhiều tới sức khỏe bản thân, NYK 2 quan tâm nhiều tới sức khỏe vật nuôi. Cả hai nhóm đều đề cập tới hợp tác đa ngành giải quyết vấn đề bệnh truyền lây. Tỷ lệ sinh viên có KAP tốt chưa cao và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này đã được xác định trong nghiên cứu. Điều này đặt ra nhu cầu bổ sung thêm các giải pháp tăng cường đến từ giảng viên, nhà nghiên cứu, trong đó không thể thiếu vai trò của hướng tiếp cận Một Sức Khỏe.

Ứng dụng châm cứu điện châm trong điều trị rối loạn vận động chi sau trên chó

Phạm Thị Hà Duyên, Lê Quang Thông & Nguyễn Thị Thương
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.05.2025
Tóm tắt | PDF (1.1M)

Tóm tắt

Với mục tiêu ứng dụng và đánh giá hiệu quả của phương pháp châm cứu điện châm trong điều trị rối loạn vận động chi sau trên chó, nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2023 đến tháng 6/2024 tại Phòng khám Thú Y VSA Pet Clinic. Phương pháp khám thần kinh đánh giá tổn thương tủy sống như tiểu không tự chủ, đại tiện không tự chủ, nhảy lò cò, kiểm tra và đánh giá cảm giác của thú ở những vị trí có ý thức, nhận thức đau nông và nhận thức đau sâu. Phân loại rối loạn vận động 2 chi sau trên chó gồm yếu và liệt. Sử dụng máy điện châm Acupuncture Unit với nguồn điện 6V, tần số 0 - 60 Hz. Tổng số 32 con chó bị rối loạn vận động chi sau có 28,13% trường hợp yếu và 71,87% liệt, gồm các giống chó lai, bull dog, dachshund, poodle, chó ta, chihuahua, phóc sóc và corgi. Tổn thương thần kinh vận động dưới (LMN) chiếm 46,87%, trong khi tổn thương thần kinh vận động trên (UMN) là 53,13% (P > 0,05). Theo thang điểm đau Glasgow có 28 con (chiếm 87,5%) ≥ 6 điểm, điểm đau trung bình mức độ liệt là 9 điểm, mức độ yếu là 6 điểm, tổn thương LMN là 8,33 điểm, tổn thương UMN với 8,00 điểm (P > 0,05). Tỷ lệ khỏi bệnh chiếm 65,67%, với thời gian châm cứu trung bình một liệu trình là 20 ngày, trong đó tỷ lệ tái phát chiếm 14,28 %. Phương pháp châm cứu điện châm đem lại hiệu quả cao và tỷ lệ tái phát thấp trong điều trị bệnh lý thần kinh rối loạn vận động chi sau trên chó.

Đánh giá đa dạng di truyền cây xoài (Mangifera indica L.) được thu thập từ khu vực núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh dựa trên chỉ thị sinh học phân tử SSR (Simple Sequence Repeats)

Trần Tú Anh, Trần Đình Phong & Phạm Đức Toàn
Bản điện tử: 22 Jan 2025 | DOI: 10.52997/jad.1.07.2025
Tóm tắt | PDF (1.7M)

Tóm tắt

Cây xoài (Mangifera indica L.) là loại cây ăn quả lâu năm thuộc họ Anacardiaceae. Tại khu vực núi Bà Đen tỉnh Tây Ninh, cây xoài cổ thụ được trồng xen canh với các loại cây trồng khác, diện tích khoảng 530 ha. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá sự đa dạng di truyền, mối quan hệ di truyền của các mẫu giống xoài được thu thập tại khu vực núi Bà Đen thuộc tỉnh Tây Ninh dựa trên chỉ thị hình sinh học phân tử SSR (Simple Sequence Repeats), nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn nguồn gene. Tổng số 9 chỉ thị SSR được sử dụng trong phân tích sự đa dạng di truyền trên 30 mẫu giống xoài. Kết quả thể hiện tổng số đoạn khuếch đại thu được là 21, trung bình 2,33 đoạn/primer, số đoạn đa hình 20/21, tỉ lệ đa hình của primer là 94,4%, kích thước các đoạn khuếch đại dao động từ 200 bp - 330 bp. Kết quả cây phân nhóm di truyền cho thấy có sự đa dạng di truyền giữa 30 mẫu giống xoài thu thập với mức độ đa hình di truyền dao động từ 0 đến 0,43 với trung bình khoảng cách đa hình di truyền là 0,29. Cây phân nhóm chia thành 3 nhóm chính, trong đó nhóm I là nhóm lớn nhất với 18 mẫu giống, nhóm II gồm 7 mẫu giống và nhóm III có 5 mẫu giống. Kết quả này là nguồn thông tin hữu ích trong công tác đánh giá đa dạng di truyền phục vụ công tác bảo tồn nguồn gene và phát triển giống xoài trong tương lai.