Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn
<p><em>“Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển (TCNN&PT) xem xét xuất bản các nghiên cứu gốc, các bài nghiên cứu ngắn và các bài tổng quan, có tính mới và hoàn chỉnh về mặt khoa học trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến khoa học nông nghiệp. Bản thảo phù hợp để xuất bản phải phản ánh mối quan tâm chung của cộng đồng khoa học và/hoặc của công chúng. Bản thảo được xem xét phải đóng góp đáng kể vào kiến thức học thuật chuyên ngành và phải tuân thủ các quy định xuất bản của TCNN&PT.”</em></p>vi-VNjad@hcmuaf.edu.vn (Tòa soạn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển)jad@hcmuaf.edu.vn (Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển)Thu, 24 Apr 2025 17:08:54 +0700OJS 3.2.1.1http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss60Sự lưu hành và gene mã hóa calmodulin của một số chủng nấm phân lập trên lông chó được điều trị tại các bệnh xá thú y ở thành phố Cần Thơ
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1299
<p><span class="fontstyle0">Đề tài được thực hiện nhằm xác định sự hiện diện và gene mã hóa calmodulin (</span><em><span class="fontstyle2">cmd</span></em><span class="fontstyle0">) trên một số chủng nấm phân lập từ lông chó tại Thành phố Cần Thơ. Bằng phương pháp nuôi cấy và định danh bằng hình thái đã ghi nhận các chủng nấm hiện diện cao (85,45%) trên lông chó khỏe và nhiễm bệnh nấm, và không phụ thuộc vào giống, hình thái lông, phương thức nuôi dưỡng, độ tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm nấm trên chó cái cao hơn chó đực với tỷ lệ lần lượt 89,92% và 81,29%. Có sự hiện diện đa dạng các chủng nấm trên lông chó, bao gồm các chủng gây bệnh như </span><em><span class="fontstyle2">Microsporum </span></em><span class="fontstyle0">spp., </span><em><span class="fontstyle2">Trichophyton </span></em><span class="fontstyle0">spp., nhưng chủng </span><em><span class="fontstyle2">Aspergillus </span></em><span class="fontstyle0">spp. là phổ biến nhất. Đồng thời, đã ghi nhận nhiều kiểu hình nhiễm ghép các chủng nấm trên lông chó. Bằng phương pháp PCR, đã xác định gene </span><em><span class="fontstyle2">cmd </span></em><span class="fontstyle0">hiện diện cao (41.19%) trên các chủng nấm phân lập được, và cao nhất là trên nấm </span><em><span class="fontstyle2">Aspergillus </span></em><span class="fontstyle0">spp. (64,23%). Do đó, chó khỏe và chó bệnh đều có thể mang những chủng nấm gây bệnh trên da lông và việc kiểm soát vệ sinh và tình trạng nấm trên chó là rất cần thiết nhằm hạn chế khả năng gây bệnh và lây truyền sang các động vật khác cũng như truyền lây sang người do tiếp xúc.</span></p>Như Ý Đồng, Minh Hùng Lê, Viết Anh Kiệt Nguyễn, Thiên Ý Lâm, Tấn Phát Trương, Lương Trường Giang Nguyễn, Kim Thanh Phan, Khánh Thuận Nguyễn
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1299Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Khảo sát sự lưu hành và tình trạng bảo hộ sau tiêm phòng vaccine viêm da nổi cục trên đàn bò tại tỉnh Long An
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1415
<p><span class="fontstyle0">Đề tài được thực hiện nhằm khảo sát sự lưu hành vi rút gây bệnh viêm da nổi cục (VDNC) và đánh giá tình trạng bảo hộ sau tiêm phòng vaccine VDNC tại 3 huyện Mộc Hoá, Đức Huệ, và Đức Hoà, tỉnh Long An từ 6/2023 đến 10/2024. Trong đó, tình hình chăn nuôi và dịch bệnh VDNC được khảo sát tại 90 hộ tại 3 huyện bằng phiếu điều tra khảo sát. Hai mươi bảy mẫu gộp dịch mũi bò được xét nghiệm bằng phương pháp real-time PCR xác định sự lưu hành vi rút VDNC, mẫu huyết thanh xét nghiệm bằng phương pháp ELISA và trung hòa vi rút (VNT) nhằm đánh giá hiệu giá bảo hộ sau tiêm phòng VDNC. Kết quả cho thấy tình hình chăn nuôi ngày càng có đầu tư cả về giống, thức ăn, chuồng trại và kiến thức người chăn nuôi. Tỉ lệ bò bệnh VDNC là 14,18% dựa trên kết quả điều tra bằng phiếu hỏi. Lứa tuổi mắc bệnh phổ biến ở nhóm bò dưới một năm tuổi. Kết quả giám sát lưu hành cho thấy tất cả các mẫu gộp đều âm tính với phương pháp real time PCR. Hiệu quả bảo hộ sau tiêm phòng đạt trên 50% (sử dụng phương pháp ELISA), trong khi nhóm bò có kháng thể trung hòa chỉ đạt khoảng 40%.</span></p>Nguyễn Thị Thương, Lê Hiệp Đoàn, Võ Phong Vũ Anh Tuấn
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1415Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Mối tương quan của một số vi sinh vật đường ruột, tình trạng phân và trọng lượng heo con sau khi bổ sung tinh dầu và probiotic vào thức ăn
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1359
<p><span class="fontstyle0">Nghiên cứu đánh giá mối tương quan của một số vi sinh vật đường ruột, tình trạng phân và trọng lượng heo con được cho ăn thức ăn có bổ sung tinh dầu thiết yếu và probiotics từ 7 ngày tuổi đến 60 ngày tuổi. Thí nghiệm lấy 120 mẫu phân giai đoạn heo con 7 ngày tuổi, 120 mẫu ở 25 ngày tuổi (cai sữa) và 60 mẫu giai đoạn 60 ngày tuổi. Kết quả cho thấy, trong tuần đầu số lượng <em>coliforms</em>, </span><span class="fontstyle2">E. <em>coli </em></span><span class="fontstyle0">và </span><em><span class="fontstyle2">Clostridium </span></em><span class="fontstyle0">đạt mức cao nhất rồi giảm dần khi heo lớn lên. Giai đoạn cai sữa dẫn đến nhiều thay đổi trong chế độ ăn và môi trường sống, làm rối loạn hệ vi sinh vật. Ở giai đoạn 7 - 25 ngày, có mối tương quan nghịch giữa trọng lượng heo con với điểm phân (r = -0,3732, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,001) và tỷ lệ ngày con tiêu chảy (r = -0,4599, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,001). Khi bổ sung probiotic có thể cải thiện sức khỏe đường ruột khi lượng </span><em><span class="fontstyle2">Bacillus </span></em><span class="fontstyle0">tăng lên có mối tương quan thuận giúp trọng lượng có thể tăng lên (r = 0,2027; </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,05). Tỉ lệ </span><em><span class="fontstyle2">Lactobacillus</span></em><span class="fontstyle0">:<em>coliforms</em> (L:C) không có ảnh hưởng rõ ràng đến các chỉ tiêu sức khỏe ở giai đoạn này nhưng quan trọng khi đến giai đoạn 25 - 60 ngày, tỉ lệ L:C có mối tương quan nghịch với tỷ lệ ngày con tiêu chảy (r = -0,5749, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,001) và mức </span><em><span class="fontstyle2">Clostridium </span></em><span class="fontstyle0">(r = -0,3068, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,05)</span><span class="fontstyle2">. </span><span class="fontstyle0">Tại thời điểm 25 ngày, tỉ lệ L:C có mối tương quan thuận với trọng lượng heo (r = 0,6282, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,001) và tỷ lệ nghịch với </span><em><span class="fontstyle2">Clostridium </span></em><span class="fontstyle0">(r = -0,3176, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0.001). Ở giai đoạn 60 ngày, tỉ lệ L:C cũng có mối liên hệ tích cực với trọng lượng (r = 0,2756, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0.05) và </span><em><span class="fontstyle2">Bacillus </span></em><span class="fontstyle0">(r = 0,6617, </span><em><span class="fontstyle2">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0.001), đồng thời có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển vi sinh vật có lợi.</span></p>Duy Linh Nguyễn, Thị Thúy Vân Phan, Hữu Ngọc Lê, Đường Chi Mai, PGS. TS. Lê Thanh Hiền
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1359Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Hiệu quả kết hợp probiotic với kháng thể IgY lên năng suất và tiêu chảy ở heo con theo mẹ
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1303
<p><span class="fontstyle0">Bệnh tiêu chảy trên heo con theo mẹ rất phổ biến, làm giảm tăng trọng, gây thiệt hại kinh tế cho ngành chăn nuôi heo trên toàn thế giới. Nghiên cứu nhằm mục tiêu xác định chế phẩm bổ sung cho heo con theo mẹ cải thiện năng suất và tình trạng giảm tiêu chảy. Sáu mươi heo nái và heo con của chúng (660 heo con giống Yorkshire x Landrace) được bố trí ngẫu nhiên vào 4 nghiệm thức, 3 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức và 5 con heo nái cùng heo con cho mỗi lần lặp lại. Nghiệm thức 1 (NT-1) đóng vai trò là nghiệm thức đối chứng, heo con được cho ăn thức ăn cơ bản không bổ sung probiotic hoặc kháng thể IgY. Heo con ở NT-2 được cho ăn thức ăn cơ bản có bổ sung probiotic, trong khi đó heo con ở NT-3 được cho ăn thức ăn cơ bản có bổ sung kháng thể IgY, và heo con ở NT-4 được cho ăn thức ăn cơ bản có bổ sung kết hợp probiotic và kháng thể IgY. Kết quả cho thấy heo con ở NT-4 có mức tăng trọng cao nhất, tiếp theo là NT-2 và NT-3, trong khi NT-1 có mức tăng trọng thấp nhất. Sự khác biệt về sự tăng trọng có ý nghĩa thống kê </span><span class="fontstyle2">(</span><em><span class="fontstyle3">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,05). Thêm vào đó, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) cao nhất ở NT-1, tiếp theo là NT-3, rồi đến NT-2, và thấp nhất là NT-4. Cuối cùng, tỷ lệ tiêu chảy thấp nhất ở NT-4 (0,84% và 0,61% trước và sau 14 ngày tuổi), tiếp theo là NT-2, kế là NT-3, và cao nhất là NT-1 (6,39% và 8,60% trước và sau 14 ngày tuổi). Sự khác biệt về tỷ lệ tiêu chảy có ý nghĩa thống kê (</span><em><span class="fontstyle3">P </span></em><span class="fontstyle0">< 0,05). Tóm lại, việc kết hợp probiotic với kháng thể IgY có hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trọng, cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn và giảm thiểu tiêu chảy ở heo con theo mẹ.</span></p>Phạm Thị Phương Trang, Võ Phong Vũ Anh Tuấn
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1303Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Đánh giá khả năng tiền sinh học (prebiotic) của chiết xuất hành tím (Allium cepa L.) đối với Lactobacillus plantarum nhằm tạo chế phẩm sinh học trong chăn nuôi gia cầm
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1360
<p><span class="fontstyle0">Nghiên cứu này đánh giá khả năng tiền sinh học của chiết xuất hành tím (</span><span class="fontstyle2"><em>Allium cepa </em></span><span class="fontstyle0">L.) và ứng dụng của nó trong chế phẩm sinh học làm chất phụ gia thức ăn cho gia cầm. Kết quả cho thấy chiết xuất hành tím chứa các hợp chất có tiềm năng prebiotic với hàm lượng cao của Fructooligosacarit, Quercetin 3,40-diglucoside, Quercetin 40-monoglucoside và Quercetin aglycone, thúc đẩy sự tăng trưởng của cả 3 chủng </span><span class="fontstyle2">L. <em>plantarum </em></span><span class="fontstyle0">1582</span><span class="fontstyle2">, L. <em>plantarum </em></span><span class="fontstyle0">WCFS1 </span><span class="fontstyle2">và L. <em>plantarum </em></span><span class="fontstyle0">JDM1, đặc biệt ở nồng độ pha loãng 40%. Chủng </span><span class="fontstyle2">L. <em>plantarum </em></span><span class="fontstyle0">1582 thể hiện đặc tính probiotic vượt trội (khả năng kháng axit 8,97 log CFU/g, muối mật 10,42 log CFU/g, nhiệt độ 7,51 - 8,10 log CFU/g, duy trì mật độ tế bào cao trong cơ quan tiêu hoá sau 24 - 72 giờ 4,93 - 5,96 log CFU/g) - đã được sử dụng trong thử nghiệm chế phẩm lên men hành tím (HTLM). Bổ sung HTLM theo đường uống cho gà thịt cho thấy </span><span class="fontstyle2">L. <em>plantarum </em></span><span class="fontstyle0">1582 đã tồn tại tốt trong đường tiêu hóa, đặc biệt ở ruột non và manh tràng trong 24 - 48 giờ. Từ kết quả nghiên cứu đạt được cho thấy chế phẩm HTLM có tiềm năng sử dụng như một chất phụ gia thức ăn trong chăn nuôi gà thịt. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu </span><em><span class="fontstyle2">in vivo </span></em><span class="fontstyle0">để đánh giá hiệu quả của HTLM này trong điều kiện thực tế.</span></p>Vũ Hải Phan, Thị Anh Phương Hoàng, Đặng Ý Vi Tạ, Xuân Hòa Nguyễn
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1360Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Tối ưu hóa quy trình trích ly polyphenol từ cây cỏ mực Eclipta prostrata L. bằng phương pháp bề mặt đáp ứng
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1253
<p><span class="fontstyle0">Cỏ mực (</span><em><span class="fontstyle2">Eclipta prostrata </span></em><span class="fontstyle0">L.) là loại thảo dược được sử dụng trong nhiều bài thuốc dân gian ở các nước châu Á nhờ có chứa những thành phần hóa học có giá trị như alkaloid, polyphenol, steroid, saponin, triterpene,… Trong đó, các hợp chất polyphenol được chiết xuất từ loại cây này cho thấy có khả năng kháng oxy hóa, kháng viêm, kháng khuẩn,… Nghiên cứu này tập trung khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình trích ly polyphenol từ cây cỏ mực, hàm lượng polyphenol tổng số thu được tốt nhất khi sử dụng dung môi ethanol 50% ở 60</span><sup><span class="fontstyle0">o</span></sup><span class="fontstyle0">C trong 90 phút với tỉ lệ dung môi:nguyên liệu 40:1 mL/g. Từ đó, điều kiện trích ly được tối ưu hóa bằng phương pháp bề mặt đáp ứng (response surface methodology) theo thiết kế phức hợp trung tâm (central composite design). Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng polyphenol cao nhất thu được là 55,92 mg GAE/g vật chất khô với tỉ lệ dung môi:nguyên liệu là 43:1 mL/g ở 64</span><sup><span class="fontstyle0">o</span></sup><span class="fontstyle0">C trong 97 phút. Ngoài ra, hoạt tính kháng oxy hóa của cao chiết từ cây cỏ mực cũng được xác định với giá trị IC</span><sub><span class="fontstyle0">50 </span></sub><span class="fontstyle0">là 78 µg/mL thông qua phương pháp bắt gốc tự do DPPH (2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl).</span></p>Quốc Thái Nguyễn, Ngọc Trúc Vy Dương, Phương Trà Trần, Nguyễn Kim Tiên Sử, Thị Ngọc Lan Nguyễn
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1253Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Ảnh hưởng của nồng độ α-NNA (α-Naphthaleneacetic acid) và giá thể đến sinh trưởng của hom giống đinh lăng lá nhỏ (Polyscias fruticosa (L.) Harms)
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1369
<p><span class="fontstyle0">Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định nồng độ α-NNA (α-Naphthaleneacetic acid) và loại giá thể giâm hom phù hợp để tối ưu hóa sự sinh trưởng của cây giống đinh lăng lá nhỏ (</span><em><span class="fontstyle2">Polyscias fruticosa </span></em><span class="fontstyle0">(L.) Harms) bằng phương pháp giâm cành. Thí nghiệm hai yếu tố được thiết kế theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 16 nghiệm thức và 3 lần lặp lại. Các hom giống đinh lăng được xử lý α-NAA (yếu tố N) với các nồng độ 1.000, 2.000, 3.000 và 4.000 mg/L, kết hợp với 4 loại giá thể khác nhau: (G1) 100% đất, (G2) 50% đất + 50% tro trấu, (G3) 50% đất + 20% mụn dừa + 30% tro trấu, và (G4) 50% đất + 40% mụn dừa + 10% tro trấu. Kết quả cho thấy, hom giống đinh lăng có tỷ lệ ra rễ và chỉ têu sinh trưởng tăng dần theo nồng độ α-NAA và đạt giá trị cao nhất ở 3.000 mg/L, sau đó giảm khi nồng độ α-NAA tăng lên. Giá thể có phối trộn mụn dừa và tro trấu có độ xốp được cải thiện đáng kể, giúp tăng tỷ lệ ra rễ và khả năng sinh trưởng của hom giống. Nghiệm thức xử lý α-NAA 3.000 mg/L kết hợp giá thể 50% đất + 20% mụn dừa + 30% tro trấu mang lại hiệu quả tốt nhất. Hom giống đinh lăng lá nhỏ sau 60 ngày giâm đạt tỷ lệ sống 94,1% và tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn là 89,9%. Các chỉ tiêu sinh trưởng ghi nhận được ở nghiệm thức này gồm chiều cao chồi 18,3 cm, đường kính chồi 7,2 mm, và số lá trung bình 5,3 lá/chồi.</span></p>Lê Thị Thủy Tiên, Bùi Tấn Đạt, Nguyễn Quốc Thanh, Lê Thị Hồng Ngọc, Phan Thị Hồng Thủy, Nguyễn Thị Huệ, Vương Thị Hồng Loan
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1369Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700Thiết kế bàn, ghế học sinh trung học phổ thông theo nguyên lý công thái học (ergonomic)
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1193
<p><span class="fontstyle0">Trong không gian trường học, việc cần có bàn, ghế đáp ứng được yêu cầu sử dụng cho học sinh có trạng thái học tập tốt nhất cần được lưu ý. Các sản phẩm bàn, ghế dành cho học sinh nói chung và bàn ghế cho học sinh cấp trung học phổ thông nói riêng, cần phù hợp với nguyên lý công thái học (ergonomic), nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu sử dụng nhằm hạn chế các bệnh trong học đường. Bài báo đã đưa thống kê kích thước trung bình cơ thể ở tư thế đứng và ở tư thế ngồi của học sinh lớp 11 của cả nam và nữ từ 16 - 17 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh năm 2023. Bài báo cũng đưa ra các chỉ tiêu của gỗ Bằng lăng nước, gỗ Cao su ghép thanh dùng cho thiết kế. Từ các kích thước cơ thể học sinh đã đưa ra, kết hợp với các thông số công thái học và thông tư của Bộ y tế cùng với việc lựa chọn nguyên liệu gỗ đạt tiêu chuẩn, tác giả đã thiết kế bộ sản phẩm bàn, ghế dùng cho học sinh trung học phổ thông - lớp 11 với kích thước bàn là 1200 x 450 x 710 mm và ghế đơn với kích thước 400 x 400 x 850 mm, chiều cao mặt ngồi 410 mm. Kết quả đã thiết kế ra mẫu sản phẩm, đề xuất quy trình gia công và tiến hành sản xuất thử bộ bàn ghế.</span></p>Lê Quang Nghĩa, Hoàng Văn Hòa, Đặng Minh Hải, Huỳnh Ngọc Hưng
Copyright (c) 2025 Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
https://jad.hcmuaf.edu.vn/index.php/jadvn/article/view/1193Thu, 24 Apr 2025 00:00:00 +0700